Tháng 2, năm 2000 (Phần I)
Tiến sĩ Eugene Mallove (1947-2004) |
[Lời giới thiệu: Bên cạnh Stanley Meyer, tiến sĩ Eugene Mallove (1947-2004) được xem như một vị anh hùng bậc nhất của phong trào Năng lượng Mới toàn cầu. Là tổng biên tập tạp chí Infinite Energy (Năng lượng Vô tận) tại Mỹ, ông cũng là giảng viên Khoa Báo chí tại Học viện công nghệ Massachusetts (MIT), đào tạo chuyên môn cho các nhà báo tương lai cách làm phóng sự về các khám phá mới trong lĩnh vực khoa học tự nhiên.
Khi hai giáo sư ĐH Utah, Stanley Pons và Martin Fleischmann, trình diễn thành công bộ “năng lượng gần-như-miễn-phí” bằng một loại phản ứng hạt nhân an toàn mới được biết đến được gọi là “hợp hạch lạnh”, Mallove đã nhiệt tình giới thiệu với thế giới về tiềm năng của phát minh này đổi mới toàn bộ nền kinh tế thế giới và nâng mức sinh hoạt của tất cả công dân Trái đất. Dù các tập đoàn xăng dầu đa quốc gia đã nhanh chóng lên phong trào phủ nhận kết quả nghiên cứu của Pons và Fleischmann, trong đó có
nhiều động thái tiêu cực như đe dọa các nhà báo dũng cảm nói lên sự thật về công nghệ hợp hạch lạnh, nhưng Mallove không bao giờ bỏ cuộc. Khi, trước sức ép của các tập đoàn xăng dầu, các đài truyền thông đại chúng không dám làm phóng sự khách quan về hợp hạch lạnh suốt thập niên 90, Mallove đã thành lập tạp chí riêng để theo dõi những khám phá khoa học mới trong lĩnh vực năng lượng gần-như-miễn-phí nói chung và hợp hạch lạnh nói riêng.
Mallove được Thượng viện Quốc hội Mỹ mời đến Washington vào ngày 15/03/2004 để trực tiếp trình diễn cho các thượng nghị sĩ hệ thống hợp hạch lạnh của mình, có khả năng phát điện chỉ với chi phí <10% giá điện thời đó. Không may, chỉ một ngày trước đó (14/3/2004), Mallove bị nhóm côn đồ tra tấn và đánh đến chết khi đang sửa nhà của cha mẹ. Lúc đó, Mallove vừa mới xuất viện sau khi mổ đường ruột nên sức khỏe quá yếu để chống cự. Buổi trình diễn công nghệ năng lượng mang tính giải phóng cho nhân loại tại Thượng viện Quốc hội đã không bao giờ xảy ra.
Trước khi qua đời, Mallove đã nhiều lần xuất hiện trên các đài vô tuyến dân lập để khuyến khích nhà nước, khuyến khích giới khoa học, và khuyến khích giới trẻ tìm hiểu về các dạng năng lượng mới và gần-như-miễn-phí có khả năng thay thế cho nhiên liệu hóa thạch. Các dạng năng lượng mới này được gọi chung là Năng lượng Điểm Không hay Năng lượng Chân không. Để tìm hiểu thêm về Năng lượng Mới, xin mời Quý độc giả xem bài thuyết trình “Năng lượng Mới là gì?” và trang Khoa học Năng lượng Mới của chúng tôi.
— Ts. Brian Ostrowski,
Chương trình hợp tác đào tạo ĐH Troy – ĐH Công nghệ Sài Gòn,
ngày 14 tháng 4 năm 2015]
Thông điệp dưới đây, được soạn bởi Tiến sĩ quá cố Eugene F. Mallove cho Tổng thống William Jefferson Clinton, được yêu cầu trong một cuộc điện thoại đến tạp chí Năng Lượng Vô Hạn (Infinite Energy Magazine) vào tháng 2 năm 2000 bởi Văn Phòng Thông Tin của Nhà Trắng. Yêu cầu cho thông điệp này là do Nhà Trắng, nghe theo lời khuyến nghị nhã nhặn của người bạn của chúng ta, Ngài Arthur C. Clarke (tác gải cuốn tiểu thuyết 2001: A Space Odyssey) quá cố, rằng Tổng Thống nên nhận tài liệu này. Thông điệp đã được soạn thảo và trình bày cho Tổng Thống với vài tá tiểu luận từ các nhà tương lai học, kỹ nghệ học và những người khác như Ngài Arthur C. Clarke. Tiến sĩ Mallove sau đó đã gửi một bản sao thông điệp này đến chính quyền Bush.
Sự khai sinh kỳ lạ của kỷ nguyên nhiên liệu nước:
Sự “kỳ diệu” hợp hạch lạnh không hề là sai lầm
bởi Eugene F. Mallove, Sc.D.*
BẢN TÓM TẮT
cho Tổng Thống Clinton
Bắt đầu vào năm 1989, một nhánh các công nghệ năng lượng mới đã bắt đầu phát triển có tiềm năng cung cấp năng lượng không ô nhiễm với tầm vóc lớn hơn nhiên liệu hóa thạch rất nhiều, sử dụng các dạng hydro từ nước như là nhiên liệu trong các điều kiện xúc tác mới. Các công nghệ này thách thức sự hiểu biết của vật lý học chính thống – một nền vật lý học sai lầm và hạn chế đã được dùng để biện hộ cho việc tiếp tục đầu tư vào nhiên liệu hóa thạch, các nhà máy điện hạt nhân và cái gọi là các chương trình nghiên cứu “năng lượng nhiệt hạch”. Chính phủ Mĩ đã tiêu tốn ít nhất 15 tỉ đô la vào năng lượng nhiệt hạch mà chưa đạt được “điểm hòa vốn” mà các công nghệ Năng lượng Mới đã đạt được.
Khí hydro như là năng lượng cho các động cơ và pin nhiên liệu đã được thảo luận và trình diễn qua vài thập kỷ. Pin nhiên liệu đang nổi lên trong thị trường thương mại, sử dụng các hợp chất giàu hydro. Những hệ thống này dựa trên các phản ứng hóa học có mật độ năng lượng (năng lượng trên một đơn vị nhiên liệu) rất thấp. Có những vấn đề nghiêm trọng trong việc sản xuất, lưu trữ và vận chuyển khí hydro. Các công nghệ Năng lượng Mới sử dụng hydro bằng một cách thức khác xa, trích xuất được hydro nhiều hơn gấp hàng ngàn đến hàng triệu lần năng lượng hóa học thông thường từ đốt cháy hydro. Vì thế, nước là nhiên liệu!
Năm 1989, sau 5 năm làm việc và đầu tư 100.000 đô la bằng chính tiền của mình, các giáo sư Stanley Pons và Martin Fleischmann đã tuyên bố phát hành năng lượng quy mô hạt nhân từ một pin điện hóa sửng dụng palađi làm vật liệu điện cực âm. Trong pin, hydro nặng được ép đưa vào palađi cho đến khi một dạng phản ứng hạt nhân mới xuất hiện, giải phóng năng lượng có cường độ rất lớn mà không có bức xạ chết người hay các sản phẩm phụ nhiễm phóng xạ sinh ra từ các quá trình năng lượng hạt nhân khác. Tuyên bố Pons-Fleischmann đã châm ngòi cho một cuộc tranh luận được ghi chép lại trong phần nội dung và tài liệu tham khảo của biên bản ghi nhớ này.
Ban Hội Thẩm Tư Vấn Nghiên Cứu Năng Lượng “Hợp Hạch Lạnh” (Cold Fusion) của Bộ Năng Lượng Hoa kỳ đã được triệu tập theo chỉ thị của Tổng Thống Bush [cha] để xem xét về cuộc tranh luận “hợp hạch lạnh” vào những ngày đầu ban sơ của nó. Ban hội thẩm dựa chủ yếu vào những báo cáo sai lệch từ Viện Công Nghệ California, Harwell (Anh), và Viện Công Nghệ Massachusetts. Các báo cáo từ tất cả ba nguồn đều tiêu cực, và ERAB đã khuyến nghị chống lại bất cứ sự đầu tư nào của chính phủ vào “hợp hạch lạnh”. Điều này đã gây ra những hậu quả sâu xa, làm ngăn trở nghiêm trọng nhưng không chặn đứng được những tiến bộ trong lĩnh vực này.
Một pin hợp hạch lạnh đang sản xuất nhiệt thừa của Parkhomov |
Sau hơn một thập kỷ nghiên cứu, hàng trăm các bài báo khoa học được bình duyệt từ các phòng thí nghiệm trên khắp thế giới đã xác nhận khám phá của Pons-Fleischmann. Nó chỉ là phần nổi của một tảng băng của toàn bộ một lớp các phản ứng hạt nhân—và các phản ứng hydro mới khác—xảy ra trong kim loại có chứa nhiều hydro nặng hay hydro thông thường bằng bất cứ cách nào trong một vài cách thức. Chúng thường được gọi là Phản Ứng Hạt Nhân Năng Lượng Thấp (LENR: Low-Energy Nuclear Reactions), hay Phản Ứng Hạt Nhân Hỗ Trợ Hóa Học (CANR: Chemically-Assisted Nuclear Reactions). Cũng có một quá trình, được tiên phong bởi công ty BlackLight Power, tạo ra các nguyên tử hydro thay đổi do xúc tác. Điểm chung của những quá trình này là sự giải phóng mãnh liệt các năng lượng quy mô hạt nhân mà không có các bức xạ phá hủy hay các sản phẩm phụ nhiễm phóng xạ. Các lò phản ứng ở quy mô nhỏ, đòi hỏi những thiết bị đơn giản và các nguyên vật liệu thông thường với hydro là nhiên liệu. Sự chuyển hóa nguyên tố của vật liệu điện cực âm kim loại thường được tạo ra. Trong một số trường hợp, khi những vật liệu phóng xạ như uranium và thorium được sử dụng trong các pin, chúng sẽ biến chất một cách nhanh chóng thành những sản phẩm phụ vô hại, không tạo ra những bức xạ độc hại hay phát nổ. Bằng phương pháp này, chất thải phóng xạ từ các lò phản ứng hiện tại có thể được xử lý và vô hiệu hóa mà không tốn các chi phí chính trị và kinh tế cho việc chôn lấp.
Nói chung, các công nghệ đang nổi lên cho thấy một tương lai nhiều tươi sáng hơn cho nhân loại. Các công nghệ này không đòi hỏi những nguồn tài nguyên được kiểm soát bởi bất kỳ nhóm nước nhỏ nào. Chúng tập trung, dễ vận chuyển, và dân chủ. Việc hiện thực hóa và phân phối những thiết bị và hệ thống dựa trên những công nghệ này với chi phí thấp sẽ phụ thuộc vào các tài nguyên của một nền kinh tế thị trường và sự dỡ bỏ đối nghịch nội tại từ các nhóm lợi ích trong chính phủ và các ngành công nghiệp Mĩ, bao gồm cả sự ngăn chặn một cách độc quyền những ứng dụng bản quyền “hợp hạch lạnh” của Văn Phòng Bản Quyền Mĩ. Những người phát minh ra các công nghệ này có thể làm giàu, nhưng cuối cùng nhân loại sẽ là người hưởng lợi. Thưa ngài Tổng Thống, ngài bây giờ chỉ cần làm một điều: tuyên bố trước công chúng rằng ngài sẽ điều tra việc này và rồi thực hiện nó.
“Bất kỳ điều gì có thể về mặt lý thuyết, sẽ đạt được trên thực tế – mặc cho những khó khăn về kỹ thuật, nếu nó được mong muốn đủ nhiều.”
– Arthur C. Clarke,
Những Chân Dung của Tương Lai
(Profiles of the Future), 1963
Năm 1870, chỉ 5 năm sau cuộc nội chiến thương tàn ở Mĩ, Jules Verne trong tiểu thuyết Hòn Đảo Huyền Bí (The Mysterious Island)đã thách thức độc giả với một dự đoán táo bạo: “Tôi tin rằng một ngày nào đó, nước sẽ được sử dụng như nhiên liệu, rằng hydrogen và oxy, hai thành phần tạo nên nước, được sử dụng đơn lẻ hay kết hợp, sẽ cung cấp một nguồn nhiệt và ánh sáng vô tận với mức độ mà than đá không thể so sánh được… Tôi tin rằng khi các mỏ than cạn kiệt, chúng ta sẽ sưởi ấm mình nhờ năng lượng từ nước. Nước sẽ là “than đá” của tương lai.” Mặc dù Verne đã tiên đoán về những tàu ngầm tiên tiến và những chuyến bay đến Mặt Trăng – thậm chí cả sự cạnh tranh giữa Mĩ và Nga trong cuộc đua đến Mặt Trăng, ông đã dự đoán được những điều mà hơn bất kỳ ai có thể tưởng tượng, ít nhất là cho đến thập niên cuối cùng của thế kỷ 20. Ông hóa ra đã còn hơn cả đúng khi tiên đoán về năng lượng của nước. Nước sẽ bắt đầu là nhiên liệu của tương lai, hoàn toàn có thể ngay trong thập kỷ này.
Có một sự thật không cần bàn cãi đã được các nhà khoa học biết đến khi họ nghiên cứu cách kiểm soát năng lượng nhiệt hạch để tạo ra năng lượng hòa bình: Chỉ trong một kilomet khối nước, tồn tại đủ đồng vị hydro nặng (đơ-te-ri) mà khi kết hợp với nguyên tố Heli ở nhiệt độ hàng triệu độ, sẽ giải phóng ra lượng năng lượng tương ứng với năng lượng khi đốt toàn bộ dầu mỏ mà ta biết trên thế giới. Hành tinh này có ít nhất một tỉ kilomet khối nước; nên không lo bị cạn kiệt nguồn nhiên liệu này. Hoặc là, nhìn vấn đề theo cách này: Trong mỗi một gallon (3.79 lít) của nước bình thường, có đủ hydro nặng để sản xuất lượng năng lượng tương đương với 300 gallon xăng dầu. Dành cho những người lo lắng: Hydro nặng chỉ chiếm có 0.015% của tất cả hydro trong nước thông thường, do đó sẽ không có chuyện khủng hoảng cạn kiệt nước vì năng lượng hợp hạch! Hydro nặng hay đơ-te-ri đơn giản là hydro có chứa thêm một nơtron trong hạt nhân của nó. Nó không phóng xạ và dễ trích xuất từ nước rất rẻ.
Giá mà chúng ta có cách để lấy được nguồn năng lượng hợp hạch này một cách an toàn và rẻ, thì những vấn đề năng lượng của thế giới xem như xong; hầu hết nếu không nói là tất cả những vấn đề môi trường liên quan đều có cách giải quyết. Nếu chúng ta có thể tìm ra cách giải phóng nguồn năng lượng tổng hợp hạt nhân lợi ích mà không có những bức xạ nguy hiểm này, và trong quy mô nhỏ, hơn là trong những lò phản ứng nhiệt hạch hạt nhân (Tokamak) to như cái sân vận động (những mẫu lò phản ứng khác thường, nhỏ hơn đang được thử nghiệm với chi phí tuyệt vời ở Princeton, MIT, và các nơi khác) thì một cuộc cách mạng thiên niên kỷ về công nghệ năng lượng sẽ nổ ra. Điều đó có nghĩa là một thời đại trong đó chi phí định kỳ để sản xuất năng lượng sẽ đạt đến zero, bởi vì hydro nặng gần như miễn phí. Quy mô của cuộc cách mạng này sẽ còn lớn hơn cả biến động của Mạng Internet ngày nay trên thế giới. Thời đại của “thông tin miễn phí” sẽ có một người bạn đồng hành: thời đại của năng lượng gần-như-miễn-phí! Ngài có thể ngạc nhiên khi biết rằng nguồn năng lượng nói trên đã được khám phá ở Mĩ từ những năm đầu của thập niên 1980, công bố vào năm 1989, và sau đó được xác nhận bởi các nghiên cứu khoa học vững chắc đã được xuất bản – một số từ các phòng thí nghiệm của nhà nước Hoa kỳ.1-7
Vậy thì tại sao ngài chưa từng nghe về nó? Cuộc cách mạng Năng lượng Mới này, thực sự, đang tiến triển trên thế giới. Nó được gọi là năng lượng “hợp hạch lạnh”, nhưng, giống như những cuộc cách mạng khoa học khác của những khám phá vĩ đại, sự khám phá công nghệ non trẻ này có một sự khai sanh rất khó khăn. Chúng tôi hy vọng rằng những độc giả có sức ảnh hưởng sau khi đọc bài viết này sẽ ngăn lại những phê bình trong cộng đồng khoa học đã ác ý và trong một số trường hợp đã cản trở một cách bất hợp pháp lĩnh vực này ở mọi tiến triển của nó. Cho dù là từ ý đồ xấu, sự ghen tỵ, hay hoàn toàn do thông tin sai lệch, những người đối kháng “không biết việc họ làm” đến một trong những hứa hẹn sáng lạng nhất của thời đại chúng ta. Bây giờ là phần còn lại của câu chuyện…
Pons và Fleischmann trong phòng thí nghiệm |
Thời điểm đã sẵn sàng
Sau gợi ý kinh ngạc của Verne năm 1870, dầu mỏ từ lòng Trái Đất, chứ không phải nước, đã xuất hiện như là “than của tương lai”. Chúng ta đã bước vào thế kỷ 20 và nhiều cuộc chiến tranh đã nổ ra vì thứ vàng đen này. Thậm chí Thế Chiến II cũng có những gốc rễ, bắt nguồn phần nào đó từ sự kiểm soát dầu bởi Nhật hay Mĩ. Cuộc Thế Chiến đó được kết thúc bởi vũ khí phân hạch hạt nhân, hệ quả của một khám phá gây nhiều tranh cãi ở châu Âu năm 1938—một khám phá tình cờ và gần như đã bị bỏ quên nếu một vài tư duy cởi mở đã không tập trung vào nó. Phân hạch đã là “hợp hạch lạnh” của những năm 1930, miễn bàn!
Năm 1988, nhà vật lý học Emilio Segre đã nhận xét về khám phá phân hạch những năm 1930 bởi Hahn, Strassman, và Meitner: “Những bài báo ban đầu của họ là một hỗn hợp của các lỗi sai và chân lý. Những bài báo này khó đọc và phức tạp, giống như hỗn hợp của các sản phẩm phân hạch – kết quả từ những sự bắn phá nơtron – cũng phức tạp. ‘Phức tạp’ và ‘gây nhiều tranh luận’ là hai đặc tính kéo dài của công trình nghiên cứu về uranium trong những năm sau.” Trong bài báo đáng chú ý của họ ngày 22 tháng 12 năm 1938 trên tờ Naturwissenschaften tuyên bố về khám phá phân hạch, Hahn và Strassman đã viết, “Như những nhà hóa học hạt nhân làm việc rất gần với lĩnh vực vật lý, chúng ta chưa thể đưa ra cách lý giải những kết quả nghiên cứu nêu trên, vì chúng dường như đi ngược với các trải nghiệm trước đây trong lĩnh vực vật lý hạt nhân.” Tuy nhiên phân hạch hạt nhân là có thật. Nó đã trở thành một khám phá làm thay đổi thế giới, tương đối dễ dàng để sao chép lại, nhưng khó khăn hơn để làm thành bom (may mắn thay!). Nó đã kết thúc một cuộc chiến kinh khủng và nó gìn giữ hòa bình giữa các siêu cường quốc đủ dài để chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ ở châu Âu.
Tuy nhiên khi thế kỷ 20 tiến vào thế kỷ 21, dầu mỏ, than và khí thiên nhiên vẫn là vua. Thảm họa Chernobyl năm 1986 đã giáng một đòn chính trị tàn khốc vào các kế hoạch mở rộng nền kinh tế dựa trên nguồn năng lượng phân hạch hạt nhân nhằm mang lại một số thời gian thay thế cho sự thống trị chuyên quyền của nhiên liệu hóa thạch. Thậm chí trong thời bình, dầu mỏ và các nhiên liệu hóa thạch khác đã có những ảnh hưởng tiêu cực, gây ra chết chóc và hủy diệt—từ những vụ cháy nổ trong vận chuyển, đến những cái chết từ từ do ô nhiễm không khí. Cuối thế kỷ 20, một nhận thức lớn hơn về môi trường đã gia tăng, nhưng thế giới vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề từ nhiên liệu hóa thạch. Những công nghệ năng lượng tái tạo thông thường, mặc cho tất cả những ưu điểm tốt đẹp của chúng, vẫn còn bị hạn chế và còn nhiều vấn đề để là giải pháp cho những vấn đề năng lượng của thế giới. Hàng triệu người vẫn tiếp tục bị chết mỗi năm từ nhiều căn bệnh khác nhau trực tiếp hay gián tiếp do sự phụ thuộc toàn cầu vào việc đốt nhiên liệu hóa thạch. Mối đe dọa của sự nóng lên toàn cầu treo lơ lửng trong không khí. Dù là thực hay phán đoán sai, mối đe dọa này cần được xem xét. Rồi ngài sẽ ngày càng thấy rõ hơn, năng lượng hợp hạch lạnh là sự dự phòng hoàn hảo.
Ví dụ điển hình cho tất cả những gì là sai lầm về Thời Đại Dầu Mỏ xảy ra vào ngày 24 tháng 3 năm 1989 vào lúc 12:04 giờ nửa đêm. Trong vùng biển nguyên sơ Prince William Sound ngoài khơi Alaska, con tàu Exxon Valdez đã bị mắc cạn và tràn 11 triệu gallon (41,6 triệu lít) dầu thô. Thảm họa khủng khiếp và ngu xuẩn đó tượng trưng cho niềm vô vọng cuối cùng của sự phụ thuộc nguy hiểm vào nhiên liệu hóa thạch dưới lòng đất. Trong cái mà cuối cùng có thể được xem như là một trong những sự trùng hợp sâu sắc nhất trong lịch sử, chỉ chưa đầy 12 giờ trước vụ tàu mắc cạn, những giai đoạn mở đầu khó khăn cho thời hiện đại “kỳ diệu” đã xảy ra dưới Núi Wasatch tuyết phủ ở Utah. Thứ năm, ngày 23 tháng 3 năm 1989 đã đem lại một chút hy vọng từ một thành phố phát triển gần vùng đất bằng trống của Great Salt Lake. Vào lúc 1:00 giờ chiều tại thành phố Salt Lake, các giáo sư hóa học Martin Fleischmann và Stanley Pons đã đốt cháy tên họ vào trong lịch sử cuộc tìm kiếm năng lượng từ nước. Dù các nhà vật lý chuyên về nhiệt hạch và phân hạch hạt nhân chưa thấu hiểu nguyên lý làm việc của thí nghiệm Pons và Fleischmann, nhưng họ đã tuyên bố đạt được điều xem chừng như không thể: những phản ứng tạo ra năng lượng tương tự như hợp hạch ở nhiệt độ bình thường — không có bức xạ chết người mà các nhà năng lượng nhiệt hạch đang dự định sử dụng để tạo ra điện từ những lò phản ứng khổng lồ của mình! Fleischmann và Pons, cũng như những người sau đó đã xác nhận kết quả nghiên cứu của họ, đã trở thành một mối đe dọa ngay lập tức cho giới năng lượng nhiệt hạch và giới vật lý học chính thống. Những người dị giáo đã bị xử lý như người ta có thể đoán được. Các nhà vật lý nhiệt hạch và phân hạch đã lập luận như sau: “Bởi vì bạn không chết vì bức xạ như lý thuyết chúng tôi dự đoán từ quá trình của mình, bạn rõ rang là kẻ thiếu hiểu biết hoặc là gian lận.”
Sự cố tràn dầu nghiêm trọng Exxon-Valdez đã thu hút sự chú ý xứng đáng và sự phản đối kịch liệt của quốc gia, nhưng nó đã không che khuất những tin tức phi thường từ Utah về hợp hạch lạnh – một khái niệm dường như rơi từ trên trời tựa hồ một kẻ ngoài hành tinh xâm nhập ngay thẳng vào tâm hồn công chúng. Tại cuộc họp báo tổ chức ở Đại học Utah, giáo sư hóa học và trưởng khoa Hóa của trường Đại Học Utah, Stanley Pons người Mĩ, và đồng nghiệp người Anh Martin Fleischmann, giáo sư điện hóa tại Đại Học Southampton và ủy viên của Hội Hoàng Gia, Anh Quốc, đã thật sự tiết lộ một phương pháp rất đơn giản để tạo ra các phản ứng hạt nhân sản sinh năng lượng — có thể hợp hạch — không phải ở nhiệt độ hàng triệu độ C như mô phỏng các vì sao, mà ở nhiệt độ thường (nhiệt độ phòng) từ một phản ứng trạng thái rắn.
Vị thần hợp hạch đã nhún vai trong chai cổ năm đó và làm kinh ngạc thế giới. Mùa xuân năm 1989 sẽ còn được nhớ đến lâu như thời gian của một chấn động bất ngờ, khi những tuyên bố lạ lùng của các nhóm nhà nghiên cứu ở Utah và sau đó là trên toàn thế giới đã dẫn dắt một số nhà khoa học, cả những người có tư tưởng cởi mở trong nhiệt hạch (đặc biệt là ở Nhật), xem xét lại cuộc tìm kiếm dài hàng mấy thập kỷ và tốn hàng tỉ đô la để thuần phục phản ứng nhiệt hạch. Cuộc đấu tranh nhằm đem nguồn năng lượng của các vì sao xuống Trái Đất, cũng huyền thoại như Prometheus đã lấy trộm lửa từ các vị thần. Mối quan tâm của cộng đồng khoa học và đông đảo công chúng vào năm 1989 nhất thời được khích động bởi ý tưởng về một loại quá trình hợp hạch mới có thể nhanh chóng dẫn đến con đường để làm cho Thần hợp hạch không nhún vai nữa và sẽ bước ra hoàn toàn khỏi cái chai của ông. Ông ấy giờ đang ra được một nửa rồi và sẽ nhanh chóng bước ra hoàn toàn.
Sự tê liệt về mô thức và sự xác nhận
Những sự kiện gây sốt đôi khi làm chúng xem xét khách quan và tạo điều kiện cho mình có một cái nhìn tốt hơn về những gì chúng ta theo đuổi và suy nghĩ lại về những giả định đã ấp ủ. Điều này thường dẫn đến việc xem xét lại sự tận hiến, những khả năng chưa thấy trước, và những hướng đi mới. Cái đánh động thỉnh thoảng vào sự tự mãn hiện tại, nếu nó xảy ra một cách tích cực, là lành mạnh – đặc biệt trong lĩnh vực khoa học và công nghệ, nơi mà sự tập trung căng thẳng vào một chiều hướng đã được thiết lập từ lâu đôi khi khiến các nhà nghiên cứu bị thiển cận. Buồn thay, khi giới khoa học đã tiếp cận vấn đề hợp hạch lạnh, nó thể hiện một sự tàn bạo khác thường trong việc đối xử với những tuyên bố và xác nhận về loại phản ứng này.
Sự xác nhận về những tuyên bố hợp hạch lạnh đáng chú ý năm 1989 đã không đến một cách dễ dàng. Những nghi ngờ và mơ hồ bất thường (không tránh khỏi bị gọi là “fusion confusion” – “sự lầm lẫn hợp hạch”) đã bao vây một cộng đồng khoa học bế tắc, kinh ngạc, và thậm chí giận dữ. Một loạt các thí nghiệm đã diễn ra sau đó để xác nhận hay bác bỏ những tuyên bố rằng các phản ứng hợp hạch hạt nhân có thể xảy ra trong một thiết bị không phức tạp hơn một ngăn điện hóa bình thường, trong những mảnh kim loại được quyện với khí hydro nặng dưới áp suất, hoặc trong các hệ thống khác. Nhiều biến thể khác của quá trình hợp hạch lạnh đã được khám phá và thậm chí được cấp bằng sáng chế từ năm 1989. Một vài trong số này sử dụng hydro thông thường (nhẹ) trong nước; một số khác hoạt động ở nhiệt độ cao ở dạng khí — không liên quan gì đến điện hóa; và một số khác nữa sử dụng những màng (phim siêu mỏng) kim loại mỏng có vẻ như định mệnh lấy từ khoa học vật liệu tiên tiến và cơ sở hạ tầng sản xuất của ngành công nghiệp chất bán dẫn. Và, kỳ lạ nhưng lại thật, có thể có cả những ý nghĩa quan trọng cho ngành công nghiệp công nghệ sinh học. Giờ đây, có vẻ ,rằng điều mà Fleischmann và Pons đã khám phá vào đầu thập niên 1980 chỉ là phần nổi của tảng băng của một lớp lớn hơn nhiều những hiện tượng quan trọng tuyệt vời liên quan đến sự xúc tác của hydro và các đồng vị của nó. Các nghiên cứu về hợp hạch lạnh gợi ý rằng khoa học sẽ tìm được những cơ chế vật lý đa dạng và lồng ghép lẫn nhau cần thiết để bao quát tất cả chúng. Những tác động của nó vượt lên trên cả khoa học năng lượng, nhưng chỉ bản thân năng lượng thôi cũng đủ là lý do làm nó là một trong những ưu tiên cao nhất của quốc gia: Tất cả những cản trở phải được dỡ bỏ khỏi ngành khoa học và công nghệ này – kể cả sự ngăn trở ở Văn Phòng Bản Quyền Mĩ đến sự can thiệp tiêu cực của các cán bộ Bộ Năng Lượng. Chủ đề này cần được thảo luận một cách cởi mở bởi các công chức.
Một phần nhỏ của những kết quả khoa học tóm tắt ủng hộ những hiện tượng của năng lượng hợp hạch lạnh được tham khảo ở những trang web này: <http://www.infinite-energy.com> và <http://world.std.com/~mica/cft.html>. Bất kỳ ai chống lại khoa học hợp hạch lạnh nên đọc kỹ về các kết quả nghiên cứu này và, nếu họ chưa được thuyết phục, họ nên thể hiện một sự phản biện từng bước của bằng chứng này. Ý kiến của bất kỳ ai lý luận chống lại bằng chứng khoa học thực nghiệm mà chỉ dựa trên nền tảng lý thuyết nên được bãi bỏ ngay lập tức. Khoa học không tiến lên chỉ bằng việc đo đạc những khám phá mới đối lập với những lý thuyết cũ. Điều này dường như đã bị quên lãng bởi một số người có nhiều quyền lực và tầm ảnh hưởng trong lĩnh vực năng lượng – những người đã làm vua của sự vô nghĩa trong chương trình chống lại hợp hạch lạnh của họ. Thực ra, đã có nhiều lý thuyết ủng hộ hợp hạch lạnh. Nhà vật lý học quá cố đồng đạt giải Nobel với Feynman, Julian Schwinger đã là một nhà lý thuyết hợp hạch lạnh đáng chú ý. Ông cũng đã rất tức giận bởi sự đối xử của Hội Vật Lý Mĩ (APS) với hợp hạch lạnh, đến nỗi ông đã từ bỏ tổ chức đó.
Tiến sĩ Michael McKubre ở Học viện Stanford Quốc tế (tác giả chính của nghiên cứu hợp hạch lạnh của Viện Nghiên Cứu Năng Lượng Điện (EPRI) năm 1994),8,9 đã kết luận trong báo cáo của mình rằng khám phá của Fleischmann và Pons đã được xác nhận bởi công trình của Stanford. McKubre đã nói rằng: “Tình cờ hay không, trong thí nghiệm đầu tiên mà chúng tôi đã thực hiện, khoảng ba hay bốn tháng sau công bố ban đầu, chúng tôi đã thấy bằng chứng của nhiệt thừa. Sự thành công đã thực sự đã thúc đẩy tôi tò mò tìm hiểu themtừ lúc đó. Vì tôi đã từng chứng kiến hiệu ứng hợp hạch lạnh bằng chính mắt mình, những tuyên bố từ một vài người rằng điều này là không thể, hay không nhất quán với tất cả những định luật vật lý hạt nhân được biết, những gợi ý này thực sự là không đúng. Không có sự phản đối về mặt lý thuyết nào đối với hợp hạch lạnh. Vấn đề là vì phần lớn các nhà vật lý hạt nhân đã tập trung quá nhiều vào năng lượng nhiệt hạch trước đây, nên họ chưa có đủ kinh nghiệm để nhận xét một cách khách quan về hợp hạch lạnh.”
Đôi khi, những nhà khoa học chống lại hợp hạch lạnh dường như làm như thế vì thái độ của họ xuất phát từ một “niềm tin tôn giáo” nhiều hơn là kiến thức khoa học của mình. Tôi xin lấy ví dụ lời phát biểu gần như hài hước của nhà khoa học đạt giải Nobel, nhà vật lý lý thuyết Steven Weinberg, người đã tấn công hợp hạch lạnh ngoài lề trong một bài báo mới đây trên tờ New York Review of Books,10 mặc dù ông không đưa ra bằng chứng gì là đã xem xét các dữ liệu thí nghiệm: “Dường như không có bất cứ ngoại lệ gì đối với trật tự tự nhiên này, bất cứ phép màu nào… Bằng chứng cho tất cả những phép màu [trong kinh Thánh] có vẻ như khá yếu so với bằng chứng về hợp hạch lạnh, và tôi không tin vào hợp hạch lạnh.”
Một ví dụ khác về hành vi sai trái nghiêm trọng chống lại khoa học bởi các nhà phê bình, đây là những lời ngu xuẩn của Tiến sĩ Robert L. Park, người đã tuyên bố đại diện cho Hội Vật Lý Mĩ. Trong cuốn sách của ông, Voodoo Science: The Road from Foolishness to Fraud (Khoa học tà thuật: Con đường từ sự ngu xuẩn đến sự lừa dối), Park đã bác bỏ hợp hạch lạnh ngay từ lời nhắc đầu tiên về nó, quy cho nó như “tuyên bố bị mất tín nhiệm về ‘hợp hạch lạnh’ vài năm trước của Stanley Pons và Martin Fleischmann.” Ông nói rằng một “nhóm tín hữu đang suy giảm” tiếp tục tổ chức hội nghị “ở một khu nghỉ dưỡng quốc tế sang trọng nào đó” trong nỗ lực nhằm “làm sống lại” hợp hạch lạnh. Ông hỏi, “Tại sao nhóm nhỏ này tin quá nhiệt thành vào một điều mà cả cộng đồng khoa học còn lại đã từ chối, xem như hoang tưởng những năm trước đây?” Ông phỏng đoán sau đó rằng, “Có lẽ nhiều nhà khoa học đã tìm thấy trong hợp hạch lạnh sự khuây khỏa khỏi nỗi nhàm chán.” Ông than phiền rằng Fleischmann và Pons đã không đưa ra được bằng chứng nào về tro hạt nhân Heli trong kết quả của họ trước tháng 6 năm 1989, vậy nên, hợp hạch lạnh là giả dối. Từ ít nhất là năm 1991, Park đã được các nhà khoa học thành viên của Hội Vật Lý Mĩ (APS), như Tiến sĩ Scott Chubb của Phòng Thí Nghiệm Nghiên Cứu Hải quân (NRL), cho biết về việc phát hiện Heli trong các điện cực âm và trong những dòng khí của các thí nghiệm hợp hạch lạnh. Những thí nghiệm độc lập này đã được công bố ở Mĩ và Nhật trong những tạp chí bình duyệt chuyên ngành. Hoàn toàn không nghi ngờ gì rằng Park biết điều này, tuy nhiên cuốn Voodoo của ông không nói gì đến những dữ liệu này, một sự gian lận nghiêm trọng bởi Park đối với các nhà báo, các lãnh đạo chính phủ, và công chúng nói chung. Thưa Ngài Tổng Thống, đây là mức độ của luận giải không phù hợp mà ngài phải xem thấu suốt qua.
Chuyển dịch bởi: Tiến sĩ Phạm Thùy Dương, NLM VN
Bức thư lịch sử của tiến sĩ Eugene Mallove (MIT) trình tổng thống Mỹ Bill Clinton về công nghệ năng lượng hợp hạch lạnh - Phần I